Xin trích đăng chuỗi bài tại Hội thảo khoa học “Phát triển bền vững kinh tế biển ở các tỉnh, thành duyên hải miền Trung và phía Nam dựa trên lợi thế so sánh”

Bài 4: PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN ĐỂ VIỆT NAM LÀ QUỐC GIA MẠNH VỀ BIỂN VÀ LÀM GIÀU TỪ BIỂN

 

Tác giả: TS. Nguyễn Thanh Tùng, Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

  1. Bối cảnh phát triển

Bước sang thế kỷ XXI, trước bối cảnh các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên đất liền ngày càng cạn kiệt, “vươn ra biển” hay đẩy mạnh phát triển kinh tế biển trở thành xu thế phát triển chủ đạo của các quốc gia có biển và cả quốc gia không có biển, trong đó có Việt Nam.Phát triển kinh tế biển, mở rộng phạm vi hoạt động kinh tế trên vùng biển và hải đảo thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để vừa khai thác hiệu quả, bền vững nguồn lợi biển, vừa khẳng định chủ quyền và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải.

Việt Nam nằm bên bờ Tây của Biển Đông, là vùng biển có vị trí địa kinh tế và chính trị quan trọng. Với chiều dài bờ biển hơn 3.200 km, bao bọc lãnh thổ ở cả 3 hướng: Đông, Nam và Tây Nam, vùng đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km2 và khoảng 3 nghìn đảo lớn, nhỏ gần bờ và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tạo nên sự đa dạng về các hệ sinh thái biển và ven biển, các nguồn tài nguyên biển phong phú (thủy sản, dầu khí, khoáng sản…) được xem là những điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành kinh tế biển.

Bên cạnh đó, vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực, đóng vai trò là chiếc “cầu nối” quan trọng, là điều kiện thuận lợi để giao lưu kinh tế, hội nhập và hợp tác giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, đặc biệt là với các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, khu vực phát triển kinh tế năng động và có một số trung tâm kinh tế lớn của thế giới.

Nhận thức rõ vị trí chiến lược của biển và vai trò quan trọng của phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển các lĩnh vực kinh tế biển của Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trong đó nổi bật là Nghị quyết 09NQ/TW ngày 9/2/2007 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Kết quả cho đến nay, Việt Nam cơ bản đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế biển quan trọng. Quy mô kinh tế biển và vùng ven biển tăng lên rõ rệt, có bước phát triển mạnh với tốc độ tăng trưởng bình quân 7,5%/năm. Cơ cấu ngành nghề cũng có sự thay đổi với sự xuất hiện một số ngành/lĩnh vực kinh tế mới như kinh tế đảo, kinh tế ven biển, chế biến dầu khí, du lịch biển đảo… góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân vùng ven biển, đồng thời đóng góp lớn vào xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia.

Mặc dù vậy, đánh giá một cách tổng thể, sự phát triển kinh tế biển đảo của Việt Nam hiện nay còn chưa xứng tầm với các điều kiện và lợi thế sẵn có. Quy mô kinh tế biển (GDP) Việt Nam hiện mới chỉ đạt khoảng trên 10 tỷ USD, còn rất nhỏ trong quy mô kinh tế biển thế giới (ước tính khoảng 1.300 tỷ USD)[1]. Trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được xem là định hướng chiến lược phát triển bền vững biển Việt Nam trong giai đoạn mới nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển.

  1. Khái niệm, vai trò về kinh tế biển

Khái niệm và vai trò của kinh tế biển vẫn là vấn đề còn nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế biển, tùy theo hướng tiếp cận và cách nhìn riêng phụ thuộc vào giá trị đóng góp của các ngành kinh tế biển đối với mỗi quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay khái niệm kinh tế biển được định nghĩa theo nghĩa rộng, không chỉ gói gọn trong một số lĩnh vực như nghề cá biển, vận tải viễn dương và du lịch biển mà đã được mở rộng bao gồm cả lĩnh vực khai thác tài nguyên biển, năng lượng biển, bảo vệ và cân bằng môi trường sinh thái biển, phòng chống thiên tai và giảm nhẹ biến đổi khí hậu.

Ở Việt Nam, cũng có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế biển, trong đó:

(1)Theo nghĩa hẹp: “Kinh tế biển bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm: (1) Kinh tế hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển); (2) Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng); (3) Khai thác dầu khí ngoài khơi; (4) Du lịch biển; (5) Làm muối; (6) Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; (7) Kinh tế đảo”

(2) Theo nghĩa rộng:“Kinh tế biển bao gồm các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển: Kinh tế hàng hải; Hải sản; Khai thác dầu khí ngoài khơi; Du lịch biển; Làm muối; Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; Kinh tế đảo và các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm: Đóng và sửa chữa tàu biển; Công nghiệp chế biến dầu khí; Công nghiệp chế biến thủy, hải sản; Cung cấp dịch vụ biển; Thông tin liên lạc biển Nghiên cứu khoa học – công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ quản lý kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên môi trường biển”.

Như vậy, kinh tế biển hiểu theo nghĩa rộng là các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy không phải diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này lại nhờ vào yếu tố biển hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền ven biển.Khái niệm này đã chỉ ra các hoạt động kinh tế biển và không gian của kinh tế biển gồm hai bộ phận là không gian biển và không gian dải đất liền ven biển. Theo đó, đối với lãnh thổ Việt Nam, kinh tế vùng ven biển là các hoạt động kinh tế ở dải ven biển, có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các huyện ven biển hoặc cũng có thể là các tỉnh ven biển – có biên giới đất liền tiếp giáp với biển, bao gồm cả các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trên phạm vi địa bàn lãnh thổ này.Cách quan niệm về kinh tế biển nêu trên về cơ bản cũng thống nhất với thông lệ quốc tế.

  1. Tiềm năng, lợi thế cho phát triển kinh tế biển Việt Nam

Theo báo cáo Chiến lược phát triển kinh tế biển và vùng ven biển Việt Nam đến năm 2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam có rất nhiều lợi thế về biển, đảo để phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như: dầu khí, thuỷ sản, du lịch, hàng hải… tạo tiềm lực mạnh mẽ để xây dựng và phát triển đất nước.Kết quả thăm dò và khảo sát cho thấy tiềm năng tài nguyên biển của Việt Nam khá phong phú và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với phát triển kinh tế biển:

3.1. Tài nguyên dầu khí

Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất với điều kiện khai thác thuận lợi. Tiềm năng trữ lượng dầu khí ước tính khoảng 3-4 tỷ m3 dầu quy đổi. Mặc dù nguồn tài nguyên dầu khí được phát hiện chưa thật lớn so với một số quốc gia khác, song đối với Việt Nam, nó có vị trí rất quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn khởi động nền kinh tế đi vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

3.2. Tài nguyên khoáng sản

Tài nguyên khoáng sản quan trọng và có tiềm năng lớn ở vùng ven biển Việt Nam, bao gồm:

– Than đá: phân bố dọc ven biển Hòn Gai – Cẩm Phả và kéo dài ra các đảo. Trữ lượng than đã ven biển Quảng Ninh vào khoảng 3 tỷ tấn, cho phép khai thác hàng chục triệu tấn/năm, tạo ra ngành công nghiệp chủ lực có tác động lớn đến phát triển kinh tế – xã hội vùng ven biển Đông Bắc của Tổ quốc. Tại đảo Kế Bào cũng phát hiện mỏ than lớn với trữ lượng 120 triệu tấn.

– Than nâu: phân bố ở độ sâu từ 300 – 1.000 mét thuộc đồng bằng sông Hồng và kéo dài ra biển với trữ lượng dự đoán hàng trăm tỷ tấn. Hiện Việt Nam chưa đủ điều kiện khai thác, nhưng đây là nguồn năng lượng dự trữ rất lớn của quốc gia.

– Than bùn:phân bố rải rác dọc ven biển các tỉnh Thanh Hoá, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Cà Mau…, đặc biệt tập trung lớn ở vùng U Minh với trữ lượng trên 100 triệu tấn.

– Quặng sắt:Đã phát hiện hàng chục mỏ và điểm quặng sắt có quy mô khác nhau ở vùng ven biển. Trong đó quan trọng nhất là mỏ Thạch Khê với trữ lượng khoảng 580 triệu tấn, chiếm 65% trữ lượng quặng sắt của cả nước, hàm lượng quặng đạt 60 – 65%, đảm bảo nguyên liệu cho cơ sở luyện kim quy mô lớn.

– Sa khoáng titan: phân bố rất phổ biến dọc bờ biển với trữ lượng ước tính khoảng 13 triệu tấn. Các khu vực tập trung titan lớn là Bình Ngọc, Sầm Sơn, Kỳ Anh, Cát Khánh và Hàm Tân, trong đó hai mỏ lớn nhất là Cát Khánh và Kỳ Anh.Hầu hết các mỏ titan đều nằm lộ thiên ở những khu vực kinh tế tương đối phát triển, nguồn lao động dồi dào, giao thông thuận tiện… nên có nhiều điều kiện để phát triển khai thác.

– Cát thuỷ tinh: là một trong những khoáng sản ven biển có tiềm năng lớn nhất với trữ lượng dự đoán hàng trăm tỷ tấn. Các mỏ cát thuỷ tinh lớn và quan trọng là Vân Hải, Ba Đồn, Nam Ô, Thuỷ Triều, Hòn Gốm… Chất lượng ở hầu hết các mỏ khá cao, hàm lượng SiO2 ở một số mỏ đạt tới 99,8% có thể sử dụng làm nguyên liệu để sản xuất các loại thuỷ tinh cao cấp và vật liệu khác.

– Tài nguyên muối và các hoá phẩm biển:gồm các loại muối như NaCl, MgCl, MgCO, CaSO, K2SO, CaCO, MgBr…, trong đó có chủ yếu là NaCl – là nguồn thực phẩm tối cần thiết của cuộc sống và nguyên liệu để điều chế các hoá phẩm công nghiệp khác từ nước biển như Magiê, Clo, Brôm, Kali hay sản xuất xút, axit clohydric.Theo đánh giá sơ bộ, tiềm năng diện tích để phát triển đồng muối vùng ven biển Việt Nam từ 50.000 đến 60.000 ngàn ha. Trong đó khoảng 60% tập trung ở vùng ven biển từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận. Khu vực thuận lợi nhất cho khai thác muối biển là tỉnh Quảng Ninh và các tỉnh ven biển từ Nghệ An đến Bình Thuận.

– Các tài nguyên khác:gồm đá vôi, đá xây dựng, đá ốp lát, cao lanh, nước khoáng… phân bố rộng ở vùng ven biển và trên các đảo, có thể phát triển công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của các địa phương ven biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

3.3. Nguồn lợi thủy sản

Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế thuỷ sản trong khu vực và trên thế giới. Vùng biển Việt Nam được đánh giá là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển, với hơn 2.000 loài sinh vật biển,là một trong 20 vùng biển có nguồn lợi hải sản giàu có nhất toàn cầu, đảm bảo trữ lượng khai thác hằng năm trên 2 triệu tấn. Bên cạnh đó, với ưu thế lớn về các điều kiện thủy văn và hệ thống ao hồ, đầm phá ven biển, rất thuận lợi cho việc phát triển nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, tạo nên những thế mạnh, tiềm năng trong phát triển kinh tế biển của đất nước.

3.4. Tiềm năng phát triển cảng và vận tải biển

Với điều kiện bờ biển dài, Việt Nam có trên 100 địa điểm có thể xây dựng cảng, trong đó có nhiều nơi có khả năng xây dựng cảng nước sâu, trung chuyển quốc tế như: Cái Lân và một số điểm ở khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, Nghi Sơn, Hòn La – Vũng Áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Vân Phong, Cam Ranh, Vũng Tàu, Thị Vải… Riêng khu vực từ Vũng Tàu đến Hà Tiên do biển nông, nên ít có khả năng xây dựng cảng biển lớn, song vẫn có thể xây dựng các cảng quy mô vừa.

3.5. Tiềm năng du lịch biển

Dọc bờ biển đã xác định khoảng 125 bãi biển lớn và nhỏ thuận lợi cho phát triển du lịch, có dung lượng chứa khách cùng một lúc đến vài trăm ngàn người, trong đó có khoảng 20 bãi biển đạt quy mô và tiêu chuẩn quốc tế. Các bãi biển của Việt Nam nhìn chung khá bằng phẳng, nước trong, sóng gió vừa phải, không có các ổ xoáy và cá dữ…, rất thích hợp cho tắm biển và vui chơi giải trí trên biển. Sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan tự nhiên với cảnh quan văn hoá – xã hội của biển, vùng ven biển và các hải đảo cùng với điều kiện thuận lợi về vị trí, địa hình của vùng ven biển đã tạo cho du lịch biển có lợi thế phát triển hơn hẳn so với nhiều loại hình du lịch khác trên đất liền.

  1. Hiện trạng phát triển kinh tế biển Việt Nam

Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và số liệu tại các niên giám thống kê tại các địa phương, trong 10 năm qua (2008-2017), kể từ khi triển khai NQ09 NQ/TW, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của các địa phương ven biển tăng trưởng bình quân 7,5%/năm, cao hơn so với mức tăng trưởng chung của cả nước (khoảng 6%/năm). Năm 2017, GRDP của các địa phương ven biển chiếm 60,5% GDP cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 64,9 triệu đồng, cao hơn so với mức bình quân cả nước đạt 53,5 triệu đồng. Trong đó, một số địa phương có mức GRDP bình quân đầu người đạt cao như Bà Rịa-Vũng Tàu (đạt hơn 225 triệu đồng), Quảng Ninh (đạt hơn 90 triệu đồng), Đà Nẵng (đạt hơn 70 triệu đồng). Nhìn chung, đời sống, mức sống của nhân dân vùng ven biển và trên các đảo được cải thiện, nâng lên rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Giai đoạn 2006 – 2016, thu nhập bình quân đầu người/tháng ở các địa phương ven biển tăng lên gấp 4,8 lần. Năm 2016, mức thu đạt 3,035 triệu đồng/người/tháng (mức trung bình cả nước là 3,049 triệu đồng/người/tháng). Giai đoạn 2011-2016, các tỉnh, thành phố ven biển đã giải quyết việc làm cho khoảng 4,67 triệu lao động, chiếm 49,73% tổng số việc làm tạo ra của cả nước.

Một số ngành kinh tế biển được xác định ưu tiên có bước phát triển mạnh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, như: Du lịch biển, đảo; khai thác và chế biến hải sản; phát triển các khu kinh tế ven biển; các hệ thống giao thông của các địa phương ven biển (đường bộ, cảng hàng không, cảng biển, cảng cá…) đều được phát triển.

Du lịch biển đảo: Các địa phương ven biển đều tích cực thu hút đầu tư xây dựng và phát triển nhiều khu, điểm du lịch ven biển mới và hiện đại, thu hút số lượng lớn khách du lịch trong nước, quốc tế. Khá nhiều dự án đầu tư khu du lịch biển, đảo cao cấp, khu du lịch thể thao, giải trí ven biển có số vốn từ 500 triệu USD đến 1 tỷ USD. Ven biển cả nước phát triển được chuỗi các khu du lịch, khu nghỉ dưỡng hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế (4-5 sao) ở hầu hết các địa phương ven biển. Phát triển một số trung tâm du lịch biển có tầm trong khu vực, như: Vân Đồn, Đà Nẵng, Phan Thiết, Phú Quốc… thu hút hàng triệu khách du lịch quốc tế mỗi năm. Du lịch biển, đảo hiện đóng góp khoảng 70% tổng doanh thu hằng năm của ngành du lịch cả nước.

Thủy sản:Các chính sách về hỗ trợ ngư dân khai thác hải sản, đóng tàu đánh bắt xa bờ có tác dụng tích cực. Sản lượng khai thác hải sản hằng năm tăng nhanh và liên tục, từ năm 2006 đến 2017, sản lượng tăng từ 1,8 triệu tấn lên 3,2 triệu tấn. Các doanh nghiệp chế biến thủy, hải sản tăng lên nhanh cả về số lượng và chất lượng sản phẩm. Đến nay, có hơn 620 cơ sở chế biến thủy, hải sản quy mô công nghiệp, trong đó có 415 nhà máy chế biến đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào những thị trường yêu cầu cao về chất lượng, an toàn thực phẩm (Nhật Bản, Mỹ, EU…).

Khu kinh tế ven biển:Hiện cả nước có 17 khu kinh tế ven biển được thành lập với tổng diện tích mặt đất và mặt nước biển gần 845.000ha. Đến cuối năm 2017, các khu kinh tế ven biển đã thu hút hơn 390 dự án đầu tư nước ngoài với tổng mức đầu tư đăng ký đạt 45,5 tỷ USD, vốn đầu tư thực hiện đạt 26,5 tỷ USD và 1.240 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đạt 805.000 tỷ đồng, vốn đầu tư thực hiện đạt 323,6 nghìn tỷ đồng. Một số khu kinh tế như: Nghi Sơn, Vũng Áng, Chu Lai, Dung Quất… thu hút được những dự án đầu tư lớn, có vai trò quan trọng tăng cường năng lực sản xuất ngành công nghiệp cả nước, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy nhiều ngành khác phát triển. Trong năm 2017, các khu kinh tế ven biển đạt tổng doanh thu khoảng 14,3 tỷ USD, xuất khẩu hơn 7,2 tỷ USD, đóng góp vào ngân sách khoảng 40.000 tỷ đồng.

Hệ thống cảng biển:được xây dựng phát triển cả về quy mô, số lượng và mật độ tại các vùng ven biển. Đến nay, cả nước có 45 cảng biển gồm 3 cảng cửa ngõ quốc tế, trung chuyển quốc tế (Hải Phòng, Bà Rịa-Vũng Tàu và Vân Phong), 11 cảng đầu mối khu vực, 17 cảng tổng hợp địa phương.Ngoài ra, có hệ thống cảng chuyên dùng cho các khu công nghiệp tập trung, khu kinh tế; tổng số có 241 bến cảng, 18 khu neo đậu, chuyển tải, tổng công suất thiết kế đạt 534,7 triệu tấn/năm; có hơn 10 cảng có thể tiếp nhận tàu trọng tải lớn 20.000DWT đến hơn 40.000DWT. Đang xây dựng cảng biển, cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng) có khả năng tiếp nhận tàu container, tàu hàng tổng hợp đến 50.000DWT đầy tải và tàu 100.000DWT giảm tải.

  1. Những hạn chế, thách thức đối với phát triển kinh tế biển

Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết 09-NQTW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu cơ bản, tuy nhiên hiện vẫn còn nhiều hạn chế và thách thức. Theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên biển và ven biển ở nhiều nơi còn kém hiệu quả, đặc biệt về khai thác, sử dụng đất ven bờ biển, mặt nước biển ven bờ. Việc phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ tài nguyên biển, bảo tồn môi trường sinh thái biển và vùng bờ còn nhiều hạn chế.

Tình trạng ô nhiễm môi trường nước biển ven bờ, vùng cửa sông, vũng, vịnh do hoạt động kinh tế và đời sống (sản xuất công nghiệp, khai thác khoáng sản, nuôi trồng thủy sản, hoạt động cảng biển, nước thải từ đô thị ven biển,…) xảy ra ở nhiều nơi chưa giải quyết được. Việc thực hiện các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng chưa đồng bộ, hiệu quả hạn chế.

Khai thác tiềm năng nguồn lợi thủy sản chưa hiệu quả cao, thiếu bền vững, chưa kiểm soát được hạn mức cấp phép khai thác hải sản cho từng vùng biển dẫn đến tình trạng khai thác cạn kiệt dần hải sản ở vùng ven bờ (hiệu suất khai thác hải sản giảm từ 0,92 năm 1990 xuống 0,32 tấn/CV năm 2015). Các hệ sinh thái ven bờ biển (rừng ngập mặn, vùng triều, rạn san hô…) có xu hướng suy giảm nghiêm trọng do tác động của hoạt động kinh tế, xây dựng.

Một số ngành kinh tế biển được xác định ưu tiên tạo bước đột phá nhưng phát triển chậm, chưa tương xứng với điều kiện tiềm năng. Kinh tế cảng biển phát triển còn chậm và thiếu hiệu quả. Hệ thống cảng biển được đầu tư xây dựng phát triển khá nhanh về cơ sở hạ tầng, tổng công suất thiết kế các cảng trong cả nước đã đạt 534,7 triệu tấn/năm. Song, mô hình quản lý cảng chưa được đổi mới, dịch vụ cảng và các dịch vụ hậu cần sau cảng phát triển chậm, chưa đồng bộ, nhiều cảng chưa khai thác hết công suất. Khối lượng hàng hóa hằng năm thông qua các cảng biển chủ yếu (do Trung ương quản lý) tăng chậm, thời kỳ 2007-2017 bình quân chỉ đạt 5,4%/năm.

Vận tải biển mức độ hiện đại hóa và sức cạnh tranh thấp, nhất là vận tải viễn dương. Đội tàu biển phần lớn là tàu đã cũ, chủ yếu hoạt động trên các tuyến gần. Cơ cấu đội tàu chưa hợp lý, dư thừa tàu chở hàng bách hóa, hàng rời, thiếu tàu container, tàu chuyên dùng. Khối lượng hàng hóa vận chuyển đường biển từ năm 2007 đến 2016 chỉ tăng bình quân ở mức 3,6%/năm.

Năng lực đóng và sửa chữa tàu biển nâng lên chậm, hiện có hơn 120 nhà máy đóng, sửa chữa tàu, năng lực đóng mới tàu biển đạt khoảng 1.000.000DWT năm. Một số ít nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài, nhà máy có hợp đồng gia công cho nước ngoài duy trì hoạt động có hiệu quả, đóng được một số loại tàu hàng, tàu chuyên dụng (tàu container, tàu hàng rời, tàu vận chuyển dầu, tàu cứu hộ…), còn lại chủ yếu đóng, sửa tàu nhỏ hoạt động ven bờ, doanh thu và hiệu quả thấp.

Khai thác và chế biến dầu khí gặp khó khăn trong điều kiện chịu tác động của giá dầu thế giới giảm sút những năm gần đây, cùng với sản lượng khai thác sụt giảm (do trữ lượng đã được tìm thấy giảm) cùng những vấn đề an ninh trên Biển Đông nên phát triển chưa mạnh theo yêu cầu đề ra. Tổng sản lượng khai thác dầu giai đoạn 2007-2017 đạt khoảng 167,9 triệu tấn (trung bình hằng năm 15,2 triệu tấn), khai thác khí đạt 101,7 tỷ m3 (trung bình hằng năm 9,2 tỷ m3). Năng lực sản xuất về lọc hóa dầu và chế biến các sản phẩm từ lọc hóa dầu còn rất hạn chế.

Kết cấu hạ tầng biển còn chưa đồng bộ, thiếu cơ sở hạ tầng lớn, hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh các trung tâm kinh tế biển mạnh. Kết cấu hạ tầng ven biển được đầu tư phát triển tương đối nhiều nhưng dàn trải, thiếu cơ sở hạ tầng lớn, hiện đại, vận hành theo tiêu chuẩn quốc tế (cảng biển, trung tâm logistics…) để tạo đột phá mạnh cho phát triển một số trung tâm kinh tế biển ở tầm quốc gia, khu vực. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng cho phát triển nhanh một số trung tâm kinh tế biển, khu kinh tế ven biển có sức cạnh tranh cao trong khu vực còn chậm, ảnh hưởng đến thu hút đầu tư.Hệ thống cảng biển được xây dựng mở rộng nhanh nhưng còn thiếu đồng bộ với nâng cấp hạ tầng giao thông kết nối thuận tiện cảng với đường bộ quốc gia, với các trung tâm kinh tế trong nội địa.

Mức sống của dân cư vùng biển được cải thiện đáng kể nhưng còn chênh lệch lớn giữa các địa bàn, đời sống người dân vùng bãi ngang ven biển và hải đảo còn nhiều khó khăn. Đến năm 2017, cả nước vẫn còn 291 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thuộc 23/28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển, chiếm 62% tổng số xã có biển trong cả nước.

Ngoài ra, Việt Nam là một trong số các quốc gia chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu và dâng cao mực nước biển. Tuy nhiên, hiện còn thiếu những nghiên cứu cụ thể về vấn đề này, cũng như chưa có giải pháp lồng ghép và mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu và dâng cao mực nước biển một cách hiệu quả. Cùng với đó, khu vực Biển Đông đang có sự tranh chấp gay gắt, nên việc hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế ở khu vực này còn gặp một số khó khăn.

  1. Định hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế biển trong thời gian tới

Trong bối cảnh tình hình quốc tế trong thời gian tới tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, tranh chấp chủ quyền ranh giới biển và sự bất đồng giữa các nước tại Biển Đông. Đồng thời, ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, biến đổi khí hậu, nước biển dâng đã trở thành vấn đề cấp bách toàn cầu. Phát triển bền vững, hài hoà giữa phát triển kinh tế với bảo tồn biển, đưa Đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh trở thành chủ trương chủ đạo của Đảng và Nhà nước, được thể hiện rõ trong Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Cụ thể:

– Mục tiêu đến năm 2030 “Đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển

– Tầm nhìn đến 2045 “Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương

Đối với phát triển kinh tế biển và ven biển, NQ36-NQ/TW xác định rõ quan điểm Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hoà giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển; tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.Mục tiêu các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 – 70% GDP cả nước. Các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các chuẩn mực quốc tế; kiểm soát khai thác tài nguyên biển trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển.

– Phát triển các ngành kinh tế biển:Đến năm 2030, phát triển thành công, đột phá về các ngành kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên: (1) Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Công nghiệp ven biển; (6) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới.

– Phát triển đồng bộ, từng bước hình thành khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị sinh thái ven biển: Tập trung xây dựng và nhân rộng các mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành và phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh. Khu kinh tế ven biển phải đóng vai trò chủ đạo trong phát triển vùng và gắn kết liên vùng.

Trên cơ sở các định hướng mục tiêu, NQ36-NQ/TW cũng đã đưa ra các giải pháp quan trọng nhằm đảm bảo thực hiện thành công Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, bao gồm: (1) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững biển, tạo đồng thuận trong toàn xã hội” (2) Hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển bền vững kinh tế biển; (3) Phát triển khoa học, công nghệ và tăng cường điều tra cơ bản biển; (4)Đẩy mạnh giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển; (5) tăng cường năng lực bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển; (6) Chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển; và (7) Huy động nguồn lực, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển bền vững biển, xây dựng các tập đoàn kinh tế biển mạnh.

Như vậy có thể thấy, trong bối cảnh gia tăng toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế, trên cơ sở kết quả, đúc rút kinh nghiệm thực hiện 10 năm NQ09-NQ/TW, thứ tự ưu tiên các lĩnh vực kinh tế cơ bản của vùng biển và ven biển Việt Nam đã có sự điều chỉnh nhằm hướng tới đạt được mục tiêu đưa Việt Nam thành quốc gia biển mạnh.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2007), Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Nghị quyết 09NQ/TW ngày 2/2/2007 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.
  2. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2018), Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010), Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020.
  4. Bộ TN&MT (2013), Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và môi trường biển đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
  5. Nguyễn Chu Hồi (2014), Giải quyết đồng bộ ba vấn đề – ngư dân, ngư nghiệp và ngư trường hướng tới nghề cá bền vững và có trách nhiệm ở Việt Nam. Tạp chí Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số tháng 7/2014, trang 20-27, Hà Nội.
  6. Viện khoa học xã hội Việt Nam và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2007), Báo cáo Hội thảo Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển kinh tế biển Việt Nam, Hà Nội.

* TS, Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

[1]http://clbthuyentruong.com/kinh-te-bien-viet-nam-thuc-trang-va-thach-thuc

 

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*